Wednesday 9 February 2011

Tu y su dung thuoc va nhung nguy co

Số lượt xem: 138
Gửi lúc 09:47' 25/08/2010

Tự ý sử dụng thuốc và những nguy cơ

Dùng thuốc theo lời mách bảo của người khác, dùng lại đơn thuốc cũ, tự làm bác sĩ chẩn bệnh rồi mua thuốc về điều trị... đó là những nguy cơ làm gia tăng các tác dụng không mong muốn của thuốc (ARD). Vậy hậu quả của các tai biến đó như thế nào và làm thế nào để hạn chế các ARD của thuốc?

Tự ý sử dụng thuốc - thói quen của nhiều người

 Chị Nguyễn Thu Hiền - Mỹ Đình - Hà Nội.
Mỗi khi tôi hay ai đó trong gia đình bị đau đầu, cảm cúm hay bị ho, tôi thường ra hiệu thuốc kể bệnh rồi được người bán hàng tư vấn mua thuốc. Nếu thuốc nào đã dùng trong thời gian trước đó có hiệu quả rồi thì lần sau bị bệnh tương tự tôi cứ thuốc đó mà mua. Ví dụ như bị đau đầu tôi thường uống paracetamol, lúc thì viên nén, lúc thì viên sủi. Hay cảm cúm thì dùng decolgen, cảm xuyên hương chẳng hạn. Trừ những bệnh mình có cảm giác nguy hiểm thì mới đến cơ sở y tế khám và dùng thuốc theo đơn còn hầu hết đối với các bệnh nhẹ với các triệu chứng thông thường tôi thường tự mua thuốc sử dụng.  Tất nhiên cũng có một vài lần tôi gặp trục trặc nhỏ trong quá trình dùng thuốc như bị hồi hộp, cảm giác bồn chồn khi dùng thuốc ngủ hay bị mẩn ngứa khi dùng kháng sinh...

 




Sử dụng thuốc không đúng - Tiền mất tật mang

 BS. Hoàng Cương - Ban Thông tin tuyên truyền - Bệnh viện Mắt Trung ương.
Chúng ta sử dụng thuốc, có loại phải kê đơn và thuốc không cần kê đơn. Như vậy tự ý dùng thuốc có thể định nghĩa là: tự dùng sản phẩm phải kê đơn mà không có đơn của bác sĩ. Có rất nhiều hoàn cảnh xô đẩy bệnh nhân tự ý dùng thuốc như: sự mách bảo của người khác, dùng đơn thuốc của người đã khỏi một bệnh tương tự,  đã có đơn thuốc cũ nay bệnh tái phát lại đem dùng lại... Hay gặp nhất là người bệnh ra hiệu thuốc kể triệu chứng rồi người bán thuốc tư vấn, bảo mua thứ này thứ kia mà dùng.

Hậu quả của việc tự ý dùng thuốc đôi khi tiền mất tật mang, thậm chí tử vong, nghĩa là bệnh không khỏi mà người bệnh có thể còn bị những tai biến, tác dụng phụ do thuốc gây nên. Có những tác dụng phụ hồi phục sau khi ngừng thuốc, nhưng cũng có những tác dụng phụ không hồi phục.

 Nhãn khoa tuy chỉ là một chuyên khoa nhỏ nhưng cũng có vô vàn trường hợp đáng tiếc do tự ý sử dụng thuốc. Xin đưa vài ví dụ đáng nhớ trong hơn 10 năm làm việc của tôi. Thời chiến tranh các thày đã kể lại có những bệnh nhân "kiên trì" nhỏ Argryzol nhiều tháng liền để chữa đau mắt đỏ, kết quả là lòng trắng bị nhuộm đen không thể hồi phục, biến đôi mắt thành một "hố đen" biết nhìn. Một vài bệnh nhân có "sáng kiến" lấy thuốc Atropine nhỏ mắt đem uống  để chữa đau bụng đã gây nhiễm độc chết người bởi Atropine nhỏ mắt có nồng độ độc chất rất cao 1- 4 g/100ml rất dễ gây nhiễm độc nếu dùng đường uống. Thời nay thuốc nhãn khoa rất đa dạng và sẵn có. Người bán thuốc có đôi chút hiểu biết về y tế sẵn sàng chiều lòng người mua nếu họ có nhu cầu. Điều này quả là tai hại. Tai biến do tự sử dụng các sản phẩm có corticoide không phải là hiếm gặp. Điều tệ hại là những tai biến gây mù loà rất khó cứu vãn: loét thủng giác mạc do bội nhiễm, glôcôm, đục thể thuỷ tinh... Một số sản phẩm điều trị glôcôm có độc tính trên hệ tim mạch và hô hấp. Nếu dùng sai liều, sai chỉ định có thể gây chậm hoặc ngừng tim, phát sinh cơn hen hoặc hen sẽ có xu hướng tăng nặng. Ngược lại một số thuốc điều trị bệnh tiêu hoá, tâm thần kinh, tim mạch cũng có thể gây ra những tai biến trên mắt: xuất huyết, gây cơn glôcôm cấp, nhìn mờ thoáng qua...

Ngoài chất lượng và hiệu quả chữa bệnh còn chú ý đến tính an toàn của thuốc
 
 TS. Nguyễn Hoàng Anh - Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc & theo dõi phản ứng có hại của thuốc (DI&ADR).
Nhắc đến thuốc, người ta không chỉ quan tâm đến chất lượng và hiệu quả chữa bệnh mà còn chú ý đặc biệt đến tính an toàn của nó. Tính an toàn của thuốc liên quan chặt chẽ đến phản ứng có hại của thuốc (ADR), một vấn đề nổi cộm, có tính chất phổ biến ở mọi quốc gia, được đánh giá là một trong 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở bệnh nhân, làm kéo dài thời gian nằm viện và làm tăng chi phí điều trị.

Theo định nghĩa năm 1972 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), phản ứng có hại của thuốc là những tác dụng độc hại, không mong muốn và không được định trước của thuốc, xuất hiện ở liều điều trị thường dùng ở người.

Với mục đích tăng cường thu thập báo cáo ADR từ cán bộ y tế, khái niệm ADR của Cục quản lý thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA), được mở rộng là các biến cố bất lợi liên quan đến việc sử dụng thuốc ở người, có hoặc chưa được coi là liên quan đến thuốc, bao gồm: biến cố bất lợi xảy ra trong khi sử dụng thuốc trong hoạt động y tế, biến cố bất lợi xảy ra do dùng quá liều (vô tình hay cố ý), biến cố bất lợi xảy ra do lạm dụng thuốc, biến cố bất lợi xảy ra khi ngừng thuốc và bất kỳ dấu hiệu không đạt được tác dụng dược lý vốn có của thuốc.

Phản ứng có hại của thuốc có thể phân loại dựa trên độ nghiêm trọng của chúng. Theo qui định của Cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ, một ADR được coi là nghiêm trọng khi  xảy ra một trong các hậu quả sau trên bệnh nhân: tử vong, đe dọa tính mạng, đòi hỏi phải nhập viện, gây ra các thương tật tạm thời hoặc vĩnh viễn, làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, gây dị dạng bẩm sinh, hoặc đòi hỏi sự can thiệp, trợ giúp y tế thường xuyên do các thương tật cho bệnh nhân.

Tuy là các phản ứng không mong muốn và không được định trước của thuốc nhưng ước tính có đến 25% ADR có thể chủ động phòng tránh được. Để phòng tránh và hạn chế có hiệu quả các ADR:

- Đối với bệnh nhân: Cần hạn chế việc sử dụng thuốc không theo chỉ dẫn của cán bộ y tế, thông báo cho bác sĩ tiền sử dị ứng với thuốc của mình trong mỗi lần khám bệnh, ngừng ngay thuốc và thông báo kịp thời cho bác sĩ nếu xuất hiện những biểu hiện bất thường trong quá trình sử dụng thuốc. 

- Đối với cán bộ y tế: Việc xác định các yếu tố nguy cơ trên mỗi đối tượng bệnh nhân cụ thể, cân nhắc lựa chọn thuốc cho bệnh nhân, sử dụng thuốc đúng qui trình, theo dõi, giám sát chặt chẽ các thuốc có nguy cơ cao trong quá trình điều trị, dặn dò tham vấn đầy đủ cho bệnh nhân về thuốc trong đó có ADR của thuốc là biện pháp phòng tránh tích cực ADR. Việc phát hiện và báo cáo ADR, đặc biệt là các ADR nghiêm trọng, các ADR của các thuốc mới lưu hành trên thị trường cho hệ thống theo dõi ADR toàn quốc cũng là biện pháp quan trọng giúp cung cấp thông tin cho việc phòng tránh và giảm thiểu tác hại của ADR do thuốc gây ra

- Đối với hệ thống y tế: Việc xây dựng và phát triển hệ thống theo dõi và đảm bảo an toàn thuốc (cảnh giác Dược) hoạt động có hiệu quả với đầu mối là Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc là yếu tố quan trọng giúp phòng tránh tích cực ADR và giảm thiểu các gánh nặng và hậu quả do ADR gây ra.

            Thu Hương (Thực hiện)


Bản gốc: Sức khỏe số - Tự ý sử dụng thuốc và những nguy cơ

No comments:

Post a Comment